Daniel Francois Esprit Auber |
Nhạc sĩ

Daniel Francois Esprit Auber |

Daniel Auber

Ngày tháng năm sinh
29.01.1782
Ngày giỗ
13.05.1871
Nghề nghiệp
nhà soạn nhạc
Quốc gia
Nước pháp

Ober. "Fra Diavolo". Agnes trẻ (N. Figner)

Thành viên của Viện Pháp (1829). Khi còn nhỏ, ông chơi violin, sáng tác các bản nhạc lãng mạn (chúng đã được xuất bản). Không phụ lòng mong mỏi của cha mẹ, những người đã chuẩn bị cho anh một sự nghiệp thương mại, anh đã cống hiến hết mình cho âm nhạc. Kinh nghiệm đầu tiên, vẫn còn nghiệp dư của ông trong âm nhạc sân khấu là vở opera truyện tranh Iulia (1811), được L. Cherubini chấp thuận (dưới sự chỉ đạo của ông, Aubert sau đó học sáng tác).

Các vở opera truyện tranh được dàn dựng đầu tiên của Aubert, The Soldiers at Rest (1813) và Testing (1819), đã không nhận được sự công nhận. Sự nổi tiếng đã mang đến cho ông tác phẩm truyện tranh The Shepherdess - chủ nhân của lâu đài (1820). Từ những năm 20. Aubert bắt đầu hợp tác lâu dài có hiệu quả với nhà viết kịch E. Scribe, tác giả của libretto của hầu hết các vở opera của ông (tác phẩm đầu tiên là Leicester và Snow).

Khi bắt đầu sự nghiệp của mình, Aubert bị ảnh hưởng bởi G. Rossini và A. Boildieu, nhưng đã có vở opera truyện tranh The Mason (1825) minh chứng cho sự độc lập và độc đáo trong sáng tạo của nhà soạn nhạc. Năm 1828, vở opera The Mute from Portici (Fenella, lib. Scribe và J. Delavigne), đã tạo nên danh tiếng của ông, được dàn dựng với thành công mỹ mãn. Năm 1842-71 Aubert là giám đốc của Nhạc viện Paris, từ năm 1857 ông cũng là một nhà soạn nhạc cung đình.

Ober, cùng với J. Meyerbeer, là một trong những người sáng tạo ra thể loại opera lớn. Vở opera The Mute của Portici thuộc thể loại này. Cốt truyện của nó - cuộc nổi dậy của ngư dân Neapolitan năm 1647 chống lại những người nô dịch Tây Ban Nha - tương ứng với tâm trạng của công chúng vào đêm trước của Cách mạng tháng Bảy năm 1830 ở Pháp. Với định hướng của mình, vở opera đáp ứng nhu cầu của khán giả cao cấp, đôi khi gây ra những buổi biểu diễn mang tính cách mạng (một biểu hiện yêu nước trong buổi biểu diễn năm 1830 ở Brussels được coi là khởi đầu của một cuộc nổi dậy dẫn đến việc giải phóng nước Bỉ khỏi ách thống trị của Hà Lan). Ở Nga, việc trình diễn vở opera bằng tiếng Nga chỉ được phép bởi cơ quan kiểm duyệt của Nga hoàng với tựa đề Kẻ cướp Palermo (1857).

Đây là vở opera lớn đầu tiên dựa trên một cốt truyện lịch sử có thật, các nhân vật trong đó không phải là những anh hùng thời xưa mà là những người bình thường. Aubert diễn giải chủ đề anh hùng thông qua ngữ điệu nhịp nhàng của các bài hát dân gian, điệu múa, cũng như các bài hát chiến đấu và các cuộc hành quân của cuộc Đại cách mạng Pháp. Vở opera sử dụng các kỹ thuật dựng kịch tương phản, nhiều dàn hợp xướng, thể loại quần chúng và các cảnh anh hùng (trên thương trường, cuộc nổi dậy), các tình huống khoa trương (cảnh điên loạn). Vai nữ chính được giao cho một nữ diễn viên múa ba lê, điều này cho phép nhà soạn nhạc bão hòa bản nhạc bằng các đoạn dàn nhạc biểu cảm theo nghĩa bóng đi kèm với vở kịch sân khấu của Fenella, và đưa các yếu tố của vở ba lê hiệu quả vào vở opera. Vở opera The Mute của Portici đã có tác động đến sự phát triển hơn nữa của opera dân gian-anh hùng và lãng mạn.

Aubert là đại diện lớn nhất của vở opera truyện tranh Pháp. Vở opera Fra Diavolo (1830) của ông đã đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử của thể loại này. Trong số vô số vở opera truyện tranh nổi bật: “The Bronze Horse” (1835), “Black Domino” (1837), “Diamonds of the Crown” (1841). Aubert đã dựa trên truyền thống của những bậc thầy của vở opera truyện tranh Pháp vào thế kỷ 18. (FA Philidor, PA Monsigny, AEM Gretry), cũng như Boildieu đương đại cũ hơn của anh ấy, đã học được rất nhiều điều từ nghệ thuật của Rossini.

Hợp tác với Scribe, Aubert đã tạo ra một thể loại truyện tranh opera mới, đặc trưng bởi những tình tiết phiêu lưu và mạo hiểm, đôi khi là những câu chuyện cổ tích, hành động phát triển tự nhiên và nhanh chóng, tràn ngập những tình huống ngoạn mục, vui tươi, đôi khi kỳ cục.

Âm nhạc của Aubert dí dỏm, phản ánh một cách nhạy cảm những pha hành động hài hước, đầy nhẹ nhàng, duyên dáng, vui nhộn và rực rỡ. Nó thể hiện các ngữ điệu của âm nhạc hàng ngày của Pháp (bài hát và điệu nhảy). Điểm số của anh ấy được đánh dấu bởi sự tươi mới và đa dạng về giai điệu, nhịp điệu sắc nét, mạnh mẽ, và thường là những dàn nhạc tinh tế và sôi động. Aubert đã sử dụng nhiều thể loại ariose và bài hát, giới thiệu một cách thuần thục các dàn nhạc và dàn hợp xướng, được ông diễn giải một cách vui tươi, hiệu quả, tạo ra những cảnh thể loại sống động, đầy màu sắc. Khả năng sáng tạo đã được kết hợp ở Aubert với năng khiếu của sự đa dạng và mới lạ. AN Serov đã đánh giá cao, miêu tả sinh động cho nhà soạn nhạc. Những vở opera hay nhất của Aubert vẫn được yêu thích.

EF Bronfin


Sáng tác:

vở opera - Julia (Julie, 1811, nhà hát tư nhân trong lâu đài Chime), Jean de Couvain (Jean de Couvain, 1812, sđd.), Quân đội nghỉ ngơi (Le séjour militaire, 1813, Nhà hát Feydeau, Paris), Di chúc, hay Những nốt nhạc tình yêu (Le testament ou Les billets doux, 1819, Opera Comic Theater, Paris), Shepherdess - chủ nhân của lâu đài (La bergère châtelaine, 1820, sđd.), Emma, ​​hay một lời hứa bất cẩn (Emma ou La promesse imprudente, 1821, sđd. cùng), Leicester (1823, sđd), Snow (La neige, 1823, sđd.), Vendôme ở Tây Ban Nha (Vendôme en Espagne, cùng với P. Herold, 1823, Học viện âm nhạc của King và Khiêu vũ, Paris), Hòa nhạc tòa án (Le concert à la Cour, ou La débutante, 1824, Opera Comic Theater, Paris), Leocadia (Léocadie, 1824, sđd.), Bricklayer (Le maçon, 1825, sđd.), Shy ( Le timide, ou Le nouveau séducteur, 1825, sđd.), Fiorella (Fiorella, 1825, sđd.), Câm từ Portici (La muette de Portici, 1828, King's Academy of Music and Dance, Paris), Cô dâu (La vị hôn thê, 1829, Opéra Comique, Paris), Fra D iavolo (F ra Diavolo, ou L'hôtellerie de Terracine, 1830, sđd.), Chúa và Bayadère (Le dieu et la bayadère, ou La courttisane amoureuse, 1830, King. Học viện Âm nhạc và Múa, Paris; vai trò của bayadère isp im lặng. nữ diễn viên ballet M. Taglioni), Love potion (Le philtre, 1831, sđd.), Marquise de Brenvilliers (La marquise de Brinvilliers, cùng với 8 nhà soạn nhạc khác, 1831, Opera Comic Theater, Paris), Lời thề (Le serment, ou Les faux -monnayeurs, 1832, King's Academy of Music and Dance, Paris), Gustav III, hoặc Masquerade Ball (Gustave III, ou Le bal masqué, 1833, sđd.), Lestocq, ou L 'mưu mô và l'amour, 1834, Opera Truyện tranh, Paris), Con ngựa đồng (Le cheval de Bronze, 1835, sđd; năm 1857 dựng lại thành một vở opera lớn), Acteon (Actéon, 1836, sđd), White Hoods (Les chaperons blancs, 1836, sđd.), Envoy (L'ambassadrice, 1836, sđd.), Black Domino (Le domino noir, 1837, sđd.), Fairy Lake (Le lac des fées, 1839, King's Academy Music and Dance ", Paris), Zanetta (Zanetta, ou Jouer avec le feu, 1840, Opera Comic Theater, Paris), Crown Diamonds (Les diamants de la couronne, 1841, ibid.), Duke of Olonne (Le duc d 'Olonne, 1842, ibid.), The Devil's Share (La part du diable, 1843, sđd.), Siren (La sirène, 1844,ibid.), Barcarolle, hay Love and Music (La barcarolle ou L'amour et la musique, 1845, ibid.), Haydée (Haydée, ou Le secret, 1847, sđd.), Đứa con hoang đàng (L'enfant prodigue, 1850 , Nhà vua. Academy of Music and Dance, Paris), Zerlina (Zerline ou La corbeille d'oranges, 1851, sđd), Marco Spada (Marco Spada, 1852, Opera Comic Theater, Paris; năm 1857 sửa thành ballet), Jenny Bell (Jenny Bell , 1855, sđd.), Manon Lescaut (Manon Lescaut, 1856, sđd.), Người phụ nữ Circassian (La circleassienne, 1861, sđd.), Bride of King de Garbe (La Vị hôn thê du roi de Garbe, 1864, sđd.)) , Ngày Hạnh phúc đầu tiên (Le premier jour de bonheur, 1868, sđd.), Giấc mơ tình yêu (Rêve d'amour, 1869, sđd.); dây. bộ tứ (chưa xuất bản), v.v.

Bình luận